Protein niệu là gì? Các công bố khoa học về Protein niệu

Protein niệu (còn được gọi là protein niệu quản) là một protein có mặt trong niệu quản của con người. Nó có vai trò quan trọng trong quá trình điều chỉnh cân bằ...

Protein niệu (còn được gọi là protein niệu quản) là một protein có mặt trong niệu quản của con người. Nó có vai trò quan trọng trong quá trình điều chỉnh cân bằng nước và ion trong cơ thể. Protein niệu giúp duy trì độ pH và áp suất trong niệu quản, đồng thời cũng là thành phần quan trọng của màng niệu quản.
Protein niệu được tạo ra từ tế bào niệu quản và có vai trò quan trọng trong việc duy trì chức năng của hệ thống niệu quản. Nó có nhiều chức năng, bao gồm:

1. Hỗ trợ màng niệu quản: Protein niệu là thành phần cấu trúc của mạng niệu quản, giúp giữ cho niệu quản mềm dẻo, linh hoạt và có khả năng mở rộng dễ dàng trong quá trình đi tiểu.

2. Điều chỉnh áp suất niệu quản: Protein niệu giúp duy trì áp suất phù hợp trong niệu quản, ngăn ngừa áp lực quá lớn hoặc thiếu tác động đến niệu quản.

3. Điều chỉnh cân bằng nước và ion: Protein niệu có khả năng hoạt động như một phân tử màng, không cho phép nước và các chất ion đi qua quá nhanh qua màng niệu quản. Việc điều chỉnh lưu lượng nước và ion qua niệu quản là quan trọng để duy trì cân bằng điện giữa nội và ngoại tế bào trong cơ thể.

4. Tạo môi trường pH ổn định: Protein niệu giúp duy trì độ pH phù hợp trong niệu quản, đảm bảo môi trường thuận lợi cho các quá trình sinh học diễn ra trong hệ thống niệu quản.

Tổn thương hoặc sự mất cân bằng của protein niệu có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe như viêm niệu quản, tiểu đường, tế bào ung thư niệu quản và các vấn đề về chức năng niệu quản.
Cấu trúc và thành phần của protein niệu:

Protein niệu bao gồm nhiều loại protein khác nhau, bao gồm collagen, elastin và các protein khác như uromodulin (hay còn được gọi là Tamm-Horsfall protein) và mucin. Mỗi loại protein này đóng vai trò quan trọng trong chức năng của niệu quản.

1. Collagen: Collagen là một loại protein kết cấu, tạo thành chất cơ bản trong niệu quản. Nó cung cấp sự đàn hồi và khả năng chịu lực cho niệu quản, giúp duy trì sự mềm dẻo và linh hoạt của niệu quản.

2. Elastin: Elastin là một loại protein có khả năng co giãn và phục hồi sau khi bị kéo dãn. Nó giúp niệu quản mở rộng và co lại dễ dàng trong quá trình đi tiểu.

3. Uromodulin (Tamm-Horsfall protein): Uromodulin là một protein được sản xuất bởi tế bào niệu quản và chức năng chính của nó là giữ nước và tạo thành một lớp bảo vệ trên bề mặt niệu quản. Điều này giúp ngăn ngừa sự hình thành các tinh thể và cản trở sự thâm nhập của vi khuẩn trong niệu quản.

4. Mucin: Mucin là một loại protein có khả năng tiết chất nhầy. Nó giúp bảo vệ bề mặt niệu quản khỏi sự tổn thương do cơ chế bảo vệ, giúp ngăn ngừa vi khuẩn và chất lọc vượt qua màng niệu quản.

Chức năng của protein niệu:

Protein niệu có vai trò quan trọng trong duy trì sự chức năng của hệ thống niệu quản. Các chức năng chính của protein niệu bao gồm:

1. Duỗi và co lại niệu quản: Collagen và elastin làm nhiệm vụ duy trì tính mềm dẻo và đàn hồi của niệu quản để giúp nó mở rộng và co lại trong quá trình đi tiểu.

2. Bảo vệ bề mặt niệu quản: Uromodulin và mucin tạo thành một lớp bảo vệ trên bề mặt niệu quản, ngăn chặn sự hình thành tinh thể và bảo vệ niệu quản khỏi tổn thương.

3. Điều chỉnh lưu lượng nước và ion: Protein niệu giúp duy trì sự cân bằng nước, natri, kali và các chất ion khác trong niệu quản. Điều này giúp duy trì áp suất và pH phù hợp trong niệu quản.

4. Ngăn chặn vi khuẩn và chất lọc xâm nhập: Mucin và uromodulin có vai trò trong việc ngăn chặn sự thâm nhập của vi khuẩn, virus và chất lọc vào niệu quản.

Mất cân bằng hoặc tổn thương của protein niệu có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe như viêm niệu quản, tiểu đường, tế bào ung thư niệu quản và các rối loạn chức năng niệu quản.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "protein niệu":

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG VÀ GIÁ TRỊ CỦA TỶ SỐ PROTEIN/CREATININE NIỆU Ở TRẺ MẮC HỘI CHỨNG THẬN HƯ TIÊN PHÁT
Mục tiêu:1. Mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của hội chứng thận hư tiên phát tại Bệnh viện Trẻ emHải Phòng từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2020.2. Phân tích giá trị của tỷ số protein/creatinine niệu trong dự đoán nồng độ protein niệu 24 giờ ở các bệnh nhân trên.Đối tượng nghiên cứu: 103 trẻ được chẩn đoán HCTHTP điều trị tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2020. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình mắc là 5,56 ± 3,05 tuổi. Trẻ nam mắc nhiều hơn so với trẻ nữ với tỷ lệ 2,3/1. HCTHTP thường phân bố chủ yếu ở nông thôn chiếm 72,8% so với thành thị và hải đảo lần lượt là 23,3% và 3,9%. Có mối tương quan chặt chẽ giữa tỷ số protein/creatinine niệu ngẫu nhiên và protein niệu 24 giờ với r = 0,88; p< 0,001. Pr24h= 0,47 x P/C-43,03. Đơn vị: Pr24h (mg/kg/ngày) P/C (mg/mmol). Kết luận: Bệnh nhi mắc hội chứng thận hư tiên phát gặp phần lớn ở trẻ nam, chủ yếu lứa tuổi học đường, triệu chứng chủ yếu là phù, giảm nặng albumin máu và protein niệu tăng cao. Nghiên cứu của chúng tôi góp phần khẳng định mối tương quan chặt chẽ giữa tỷ số protein/creatinine niệu ngẫu nhiên và giá trị protein niệu 24 giờ. Từ đó trong sàng lọc phát hiện, chẩn đoán và theo dõi hội chứng thận hư tiên phát ở trẻ em có thể dùng tỷ số protein/creatinine niệu ngẫu nhiên thay thế cho protein niệu 24 giờ trong đánh giá protein niệu.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY TÁI PHÁT TRONG HỘI CHỨNG THẬN HƯ TIÊN PHÁT TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG CẦN THƠ
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 30 - Trang 188-194 - 2020
Đặt vấn đề: Hội chứng thận hư (HCTH) là bệnh lý ít gặp ở trẻ em nhưng thường hay tái phát sau điều trị bằng prednisolone. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và xác định các yếu tố nguy cơ gây tái phát trong HCTH ở trẻ em. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ gồm 70 bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ từ 1/1/2019 đến 30/6/2020. Xác định các yếu tố nguy cơ gây tái pháp bằng mô hình hồi qui Cox. Kết quả: Tổng cộng có 70 bệnh nhi HCTH vào viện, tuổi trung vị là 7,0 (4,7-11) tuổi, giới nam chiếm 71,4% (50/70). Thời gian theo dõi trung vị là 7,2 (2,2-11,8) tháng. Có 20 bệnh nhi tái phát, tỉ lệ tái phát là 28,5%. Có 4 yếu tố nguy cơ độc lập gây tái phát gồm: Nhóm tuổi ≤ 5 (tỉ số nguy cơ HR và khoảng tin cậy (KTC) 95%, 4,31 (1,2814,52); protein niệu/24 giờ > 3g/L, HR = 5,69 (KTC 95%:1,41-22,83); cholesterol máu > 10,6 mmol/L, HR = 3,89 (KTC 95% 1,15-13,13) và creatinine máu > 91 µmol/L, HR = 102,6 (KTC 95%: 5,04-2089). Kết luận: HCTH là bệnh lý thường hay tái phát sau điều trị. Các yếu tố nguy cơ gây tái phát gồm trẻ em nhỏ tuổi, có protein niệu cao, cholesterol và creatinine máu cao.     
#Hội chứng thận hư #tái phát #protein niệu
Tác dụng có lợi của các chất ức chế hệ thống renin-angiotensin (RASI) trên bệnh thận IgA có tổn thương ống kẽ phân loại theo phân loại Oxford Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 23 - Trang 834-840 - 2019
Xơ cứng toàn cầu đã được báo cáo là yếu tố nguy cơ của bệnh thận IgA (IgAN). Trong phân loại Oxford, xơ cứng toàn cầu có liên quan đến các tổn thương ống kẽ (T). Do đó, ở những bệnh nhân có tổn thương T, các chất ức chế hệ thống renin-angiotensin (RASI) có thể có hiệu quả bằng cách giảm tình trạng tăng lọc cầu thận và huyết áp cao. Tuy nhiên, những tác động tích cực này của RASI chưa được báo cáo. Trong nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này, chúng tôi đã chia 87 bệnh nhân IgAN có tổn thương T1/2 thành hai nhóm: nhóm RASI (n=47, được điều trị bằng RASI) và nhóm APA (n=40, được điều trị bằng các tác nhân chống tiểu cầu). Chúng tôi đã phân tích thông tin nền của từng nhóm, sự thay đổi huyết áp theo thời gian và lượng protein niệu (U-Prot), sự tiến triển đến bệnh thận giai đoạn cuối, và các yếu tố nguy cơ cho sự tiến triển. Sau khi điều chỉnh theo điểm xu hướng, 22 trường hợp từ mỗi nhóm đã được chọn và các đặc điểm lâm sàng cũng như mô bệnh học tương tự nhau. Sự thay đổi huyết áp theo thời gian đã giảm đáng kể trong nhóm RASI (p=0.0029), nhưng không có ở nhóm APA. Lượng protein niệu có xu hướng giảm trong nhóm RASI, mặc dù không có ý nghĩa thống kê (1.14–0.47 g/gCre) và tương tự ở nhóm APA (0.95–0.85 g/gCre). Tỷ lệ sống sót thận sau 20 năm là 59.5% ở nhóm RASI, trong khi 21.3% ở nhóm APA (p=0.0119). Trong phân tích hồi quy Cox đa biến, RASI là yếu tố độc lập để ngăn ngừa sự tiến triển đến bệnh thận giai đoạn cuối (HR 5.91, p=0.0039). RASI đã chỉ ra tác dụng có lợi đáng kể trên các bệnh nhân IgAN có tổn thương T tiến triển về mặt mô học. Những kết quả này tương thích với các nghiên cứu trước đã báo cáo các tác động tích cực của RASI trên các bệnh nhân IgAN có tình trạng tiến triển lâm sàng.
#bệnh thận IgA #chất ức chế hệ thống renin-angiotensin #tổn thương ống kẽ #phân loại Oxford #huyết áp #protein niệu #bệnh thận giai đoạn cuối
Một số yếu tố tiên lượng kết quả thai kỳ bất lợi trên thai phụ bị lupus ban đỏ hệ thống tại Bệnh viện Bạch Mai
Tạp chí Phụ Sản - Tập 21 Số 2 - Trang 41-48 - 2023
Mục tiêu: 1. Nhận xét kết quả thai kỳ và biến chứng sản khoa ở thai phụ bị lupus ban đỏ hệ thống có thai ở Bệnh viện Bạch Mai. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ bất lợi ở thai phụ bị lupus ban đỏ hệ thống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu trên 30 thai phụ bị lupus ban đỏ hệ thống được quản lý và kết thúc thai kỳ tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2022 đến tháng 1/2023. Kết quả thai kỳ bất lợi là 1 trong các tình trạng sau: (i) thai chết lưu sau 12 tuần, (ii) đẻ trước 36 tuần do thai chậm phát triển trong tử cung, tăng huyết áp, tiền sản giật, (iii) tử vong sơ sinh (iv) sơ sinh nhẹ cân so với tuổi thai. Kết quả: Kết quả thai kỳ bất lợi xảy ra ở 14 thai kỳ (46,7%): 2 (6,7%) tử vong sơ sinh, 5 (16,7%) đẻ non do TSG, 7 (23,3%) đẻ non do thai chậm phát triển, 8 (26,7%) sơ sinh nhẹ cân so với tuổi thai. Nhiễm khuẩn hậu sản có 5 bệnh nhân (16,7%): 3 (10,0%) nhiễm khuẩn vết mổ, 2 (6,7%) nhiễm khuẩn tử cung. Các yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ bất lợi là nồng độ C3 giảm (OR 8,07, 95%CI 1,54 - 42,32), protein niệu ≥ 1 g/L (OR 6,0, 95%CI 1,003 - 35,91) và kháng đông lupus (OR 7,0, 95%CI 1,14 - 42,97). Kết luận: Kết quả thai kỳ bất lợi xảy ra ở 46,7% bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có thai. Tỷ lệ nhiễm khuẩn hậu sản là 16,7%. Giảm nồng độ C3, protein niệu ≥ 1 g/L và kháng đông lupus dương tính là các yếu tố tiên lượng kết quả thai kỳ bất lợi.
#lupus ban đỏ hệ thống #kết quả thai kỳ #kháng đông lupus #bổ thể C3 #protein niệu
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TIỀN SẢN GIẬT TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
  Đặt vấn đề: Tiền sản giật là một tình trạng bệnh lý toàn thân rất phức tạp tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ rủi ro cho sức khỏe của người phụ nữ và thai nhi xảy ra trong giai đoạn mang thai. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị tiền sản giật tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Cỡ mẫu là 109 trường hợp tiền sản giật được nhập viện tại Khoa Phụ sản, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ năm 2019. Kết quả: Có 46,79% huyết áp ≥160/110 mmHg và 44,04% huyết áp 150/100mmHg. Triệu chứng nặng là nhức đầu, đau thượng vị, nhức đầu kèm yếu tố khác như mờ mắt hoặc đau thượng vị. Có 48,57% trường hợp có biến chứng cho mẹ và thai nhi. Tuổi thai trung bình là 36,95 ± 3,24 tuần; có 57,14% ở tuổi thai 37- 40 tuần. Protein niệu là 1095,24 ± 913,98 mg/dl. Có 47,77% có 44,04% trường hợp hợp có protein niệu là 0,5 gram đến 1 gram trong 24 giờ. Tiểu cầu là 228.000/mm3± 55.000/mm3. Tiểu cầu < 100.000/mm3 là 1,83%. Kết quả điều trị:  Tỷ lệ mổ lấy thai là  94,5%, với chỉ định chấm dứt thai kỳ là tiền sản giật kèm theo yếu tố bất thường như thiểu ối, thai quá ngày, con quý, thai suy dinh dưỡng bào thai chiếm 79,36%; trọng lượng trẻ là 2691,429± 753,66 gram; có 15,6% trẻ ≤ 2000gram và 14,68% trẻ từ 2000 đến 2500 gram. Kết luận:  Biến chứng của tiền sản giật đang có xu hướng tăng; điều trị chủ yếu là phẫu thuật mổ lấy thai.    
#Tiền sản giật #mổ lấy thai #protein niệu
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA THAI PHỤ TIỀN SẢN GIẬT TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI TỪ THÁNG 6/2018 - 02/2023
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 48 Số 6 - Trang 40-48 - 2023
Mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của thai phụ tiền sản giật (TSG) so với thai phụ bình thường tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 6/2018 - 02/2023. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên hai nhóm thai phụ là nhóm thai phụ TSG (202 thai phụ) và nhóm đối chứng (197 thai phụ bình thường). Các biểu hiện lâm sàng và chỉ số cận lâm sàng của các thai phụ được thu thập từ bệnh án lâm sàng vào bệnh án nghiên cứu. Kết quả: Tuổi trung bình của thai phụ, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu, protein niệu, nồng độ creatinine, ure, acid uric huyết thanh, AST, ALT huyết thanh trung bình của thai phụ TSG cao hơn có ý nghĩa so với nhóm đối chứng (p < 0,001). Tuổi thai, cân nặng sơ sinh và nồng độ albumin huyết thanh của nhóm thai phụ TSG thấp hơn nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Tỷ lệ phù, đau đầu, nhìn mờ của nhóm TSG cao hơn có ý nghĩa so với nhóm đối chứng. Tỷ lệ thai phụ TSG bị giảm tiểu cầu cao hơn so với nhóm đối chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết luận: Có sự khác biệt về một số chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng giữa nhóm thai phụ TSG và nhóm thai phụ bình thường.
#Tiền sản giật #Tăng huyết áp #Protein niệu
Wordt de schatting van het coronaire risico beter met C-reactive protein en andere nieuwe risicofactoren?
Medisch-Farmaceutische Mededelingen - Tập 44 - Trang 328-328 - 2006
Sinds 1998, na het Framingham-onderzoek, kunnen wij iemands risico op coronaire hartziekten redelijk goed schatten. De belangrijkste risicofactoren zijn door dit onderzoek bekend geworden: leeftijd, sekse, ras, verhoogde bloeddruk, roken van sigaretten, hoog totaal cholesterol, laag HDL-cholesterol en diabetes mellitus. Het Amerikaanse prospectieve onderzoek ‘Atherosclerosis Risk In Communities’(ARIC) heeft 19 potentiële risicofactoren voor coronaire hartziekten onderzocht, alle nieuw. Deze factoren zijn gericht op ontsteking (zoals CRP), endotheelfunctie, fibrinevorming, fibrinolyse, vitaminen uit de B-groep en antilichamen tegen infectieuze agentia. Ook al lijkt de relatie van een bepaalde factor met coronaire hartziekten significant, dan uit zich dat niet in het gewicht indien men deze factor gaat inpassen in de reeds bestaande risicofactoren zoals bovenvermeld.
Các biểu hiện thận của bệnh Dent và hội chứng Lowe Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 23 - Trang 243-249 - 2007
Đến nay, hai gen gây bệnh có trách nhiệm trong sự phát triển của bệnh Dent đã được xác định: CLCN5 và OCRL1. Nghiên cứu này đã khảo sát mối tương quan kiểu gen-biểu hiện ở các bệnh nhân mắc bệnh Dent và các bệnh nhân mắc hội chứng Lowe. Trong số 12 cậu bé có kiểu hình điển hình của bệnh Dent, chín cậu có đột biến ở CLCN5 (bệnh Dent 1), hai cậu có đột biến ở OCRL1 (bệnh Dent 2), và một cậu không có đột biến ở cả hai gen. Tất cả bảy cậu bé có chẩn đoán lâm sàng về hội chứng Lowe đều có đột biến ở OCRL1. Các bệnh nhân mắc hội chứng Lowe cho thấy tình trạng hạ phosphat huyết/rickets thường xuyên hơn và protein niệu ống thận nổi bật hơn so với các bệnh nhân mắc bệnh Dent 1, trong khi các bệnh nhân mắc bệnh Dent 2 có mức protein niệu ống thận cao hơn và tình trạng hypercalciuria nặng hơn so với bệnh nhân mắc bệnh Dent 1. Thêm vào đó, một bệnh nhân mắc bệnh Dent 2 cho thấy mức độ chậm phát triển nhẹ, nồng độ enzym cơ huyết thanh tăng cao, và tinh hoàn ẩn. Nghiên cứu này đã xác nhận tính không đồng nhất về di truyền trong bệnh Dent và tính không đồng nhất về biểu hiện ở hội chứng Lowe. Ở những bệnh nhân mắc bệnh Dent, sự hiện diện của các biểu hiện ngoài thận đã đề cập trên đây cho thấy rằng khả năng bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi bệnh Dent 2 có khả năng cao hơn so với bệnh Dent 1.
#bệnh Dent #hội chứng Lowe #gen CLCN5 #gen OCRL1 #biến thể di truyền #protein niệu ống thận
Hội chứng thận nhiễm mỡ bẩm sinh và sự tái phát protein niệu sau cấy ghép thận Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 29 - Trang 2309-2317 - 2014
Cấy ghép thận (RTx) là phương pháp điều trị duy nhất có thể chữa khỏi cho hầu hết các trường hợp hội chứng thận nhiễm mỡ bẩm sinh và ở trẻ sơ sinh (NS) do các khiếm khuyết di truyền ở các protein podocyte cầu thận. Kết quả của RTx ở những trẻ em này thường rất xuất sắc, không có sự tái phát hội chứng thận nhiễm mỡ. Tuy nhiên, một nhóm bệnh nhân với loại hội chứng thận bẩm sinh Phần Lan (CNF) cho thấy rõ ràng nguy cơ protein niệu sau khi cấy ghép thận. Hầu hết các bệnh nhân này có một đột biến đứt gãy đồng hợp tử (đột biến Fin-major) trong gen nephrin (NPHS1), dẫn đến sự vắng mặt hoàn toàn của protein podocyte chính, nephrin. Sau khi cấy ghép thận, những bệnh nhân này phát triển kháng thể chống nephrin, dẫn đến protein niệu trong phạm vi hội chứng thận nhiễm mỡ. Việc trao đổi huyết tương kết hợp với cyclophosphamide và kháng thể chống CD20 đã chứng tỏ là liệu pháp thành công cho những trường hợp này. Sự tái phát hội chứng thận nhiễm mỡ cũng đã xảy ra ở một vài bệnh nhân có đột biến trong gen podocin (NPHS2). Không có kháng thể chống podocin nào được phát hiện, và sinh lý bệnh của sự tái phát vẫn còn mở. Trong khi hầu hết các trường hợp này đã được giải quyết, liệu pháp tối ưu vẫn chưa được xác định.
#Hội chứng thận nhiễm mỡ #cấy ghép thận #protein niệu #nephrin #podocin #liệu pháp điều trị.
Viêm thận kẽ cấp tính khiến một cô bé sáu tuổi dễ mắc hội chứng thận hư thay đổi tối thiểu Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 20 - Trang 1168-1170 - 2005
Một cô bé sáu tuổi đã được nhập viện với tình trạng suy thận cấp. Chúng tôi đã đưa ra chẩn đoán lâm sàng về viêm thận kẽ cấp tính và bắt đầu liệu pháp corticosteroid đường uống. Tình trạng suy thận của cô nhanh chóng phục hồi, và sinh thiết thận cho thấy viêm thận kẽ cấp tính qua vi kính ánh sáng với sự xóa nho bèo tiểu cầu thận qua kính hiển vi điện tử. Mặc dù tình trạng protein niệu của cô vào thời điểm sinh thiết không nghiêm trọng, nhưng sau đó nó đã gia tăng và cho thấy triệu chứng hội chứng thận hư. Chúng tôi tiếp tục điều trị bằng corticosteroid và hội chứng thận hư của cô đã thuyên giảm sau 13 ngày kể từ khi sinh thiết. Các xét nghiệm huyết thanh và vi sinh cho thấy không có bằng chứng về mầm bệnh đã biết hoặc độ nhạy thuốc. Thời gian biến đổi của protein niệu được theo dõi bằng sự bài tiết protein tổng phân đoạn (FETP) và bài tiết β2 microglobulin phân đoạn (FEβ2MG) nhằm đánh giá mức độ nặng nề của protein niệu dưới các tỷ lệ lọc cầu thận khác nhau và chức năng ống thận gần khác nhau. Kết quả cho thấy hội chứng thận hư đã xảy ra trong quá trình phục hồi từ viêm thận kẽ cấp tính. Đây là báo cáo ca bệnh đầu tiên cho thấy sự xuất hiện liên tiếp của viêm thận kẽ cấp tính và hội chứng thận hư dựa trên bằng chứng từ sự bài tiết protein phân đoạn.
#viêm thận kẽ cấp tính #hội chứng thận hư #protein niệu #sinh thiết thận #corticosteroid
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2